Thuốc chống đông là gì? Các công bố khoa học về Thuốc chống đông

Thuốc chống đông là các loại thuốc được sử dụng để ngăn chặn sự hình thành hoặc phá vỡ các cục máu đông trong cơ thể. Điều này giúp ngăn chặn các vấn đề về sức ...

Thuốc chống đông là các loại thuốc được sử dụng để ngăn chặn sự hình thành hoặc phá vỡ các cục máu đông trong cơ thể. Điều này giúp ngăn chặn các vấn đề về sức khỏe do đông máu gây ra, như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, và các cơn đau tim do đông máu.
Thuốc chống đông hoạt động bằng cách ức chế quá trình đông máu, ví dụ như ngừng sự hình thành của các yếu tố đóng máu hoặc ngăn chặn sự liên kết của các cục máu đông. Các loại thuốc chống đông bao gồm aspirin, warfarin, heparin, enoxaparin, rivaroxaban, dabigatran, và apixaban. Tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe cụ thể của người dùng, bác sĩ sẽ quyết định loại thuốc chống đông phù hợp nhất và liều lượng thích hợp. Việc sử dụng thuốc chống đông cũng cần được theo dõi chặt chẽ để tránh tình trạng bất ổn và tác dụng phụ có thể gây nguy hiểm.
Ngoài việc sử dụng thông thường để ngăn ngừa các vấn đề về sức khỏe do đông máu gây ra, thuốc chống đông cũng thường được sử dụng trong các trường hợp sau:

1. Điều trị các bệnh tim mạch: Thuốc chống đông thường được sử dụng để đối phó với các tình trạng như suy tim, nhồi máu cơ tim, hoặc cơn đau tim.

2. Phòng ngừa đột quỵ: Đặc biệt ở những người có nguy cơ cao mắc các bệnh lý về đông máu.

3. Sau phẫu thuật: Các loại thuốc chống đông thường được sử dụng để ngăn chặn sự hình thành các cục máu đông sau khi phẫu thuật lớn, như phẫu thuật thay van tim hoặc phẫu thuật gắn stent.

4. Trong các trường hợp đặc biệt, các thuốc chống đông cũng được sử dụng để điều trị bệnh tim vành.

Việc sử dụng thuốc chống đông cần được điều chỉnh và theo dõi chặt chẽ dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia y tế.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng việc sử dụng thuốc chống đông cần phải tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ, do mức độ khó kiểm soát và tiềm ẩn những rủi ro trong quá trình điều trị. Việc sử dụng quá liều hoặc sử dụng không đúng cách có thể gây ra tình trạng chảy máu không kiểm soát hoặc nguy hiểm.

Ngoài ra, khi sử dụng thuốc chống đông, người dùng cần phải tránh việc sử dụng các loại thuốc không kê toa, bao gồm aspirin hoặc các loại thuốc chống đau không steroid, mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ, vì điều này có thể gây ra tình trạng chảy máu không kiểm soát.

Cuối cùng, khi sử dụng thuốc chống đông, người dùng cũng cần phải thông báo cho bác sĩ về bất kỳ tình trạng sức khỏe khác đang mắc phải và cả về các loại thuốc khác đang sử dụng, bao gồm cả thuốc kê toa và không kê toa, để tránh tình trạng tương tác thuốc xảy ra.
Nếu bạn đang sử dụng thuốc chống đông, có thể một số biện pháp an toàn dưới đây cũng cần được áp dụng:

1. Hạn chế hoặc tránh thức ăn giàu vitamin K, do vitamin K có thể ảnh hưởng đến tác dụng của các loại thuốc chống đông.

2. Thực hiện kiểm tra định kỳ tại bác sĩ để đảm bảo rằng liều lượng thuốc chống đông bạn đang sử dụng là phù hợp.

3. Thực hiện các biện pháp an toàn để ngăn chặn chấn thương hoặc chảy máu, do có rủi ro chảy máu tăng cao khi sử dụng thuốc chống đông.

Ngoài ra, khi có dấu hiệu của chảy máu không ngừng, hoặc bất kỳ tình trạng khẩn cấp nào khác xảy ra, bạn cần ngay lập tức tìm sự giúp đỡ y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thuốc chống đông":

19. Nhu cầu tư vấn dinh dưỡng của người bệnh rung nhĩ điều trị ngoại trú thuốc chống đông kháng vitamin K tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tìm hiểu thực trạng và nhu cầu tư vấn dinh dưỡng trên 80 người bệnh rung nhĩ điều trị ngoại trú thuốc chống đông kháng vitamin K tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021 cho thấy tỷ lệ người bệnh đã được tư vấn dinh dưỡng trong quá trình điều trị còn thấp với 57,5%. Trong khi đó người bệnh có nhu cầu cần tư vấn dinh dưỡng là khá cao với 83,8%. Lý do đưa ra chủ yếu là thiếu kiến thức dinh dưỡng. Người bệnh có quan tâm đến dinh dưỡng và người bệnh chưa được tư vấn dinh dưỡng khi điều trị có nhu cầu tư vấn dinh dưỡng cao hơn so với các nhóm còn lại với p < 0,05. Bệnh viện nên tìm hiểu nguyên nhân làm tỷ lệ người bệnh điều trị ngoại trú được tư vấn dinh dưỡng còn thấp và nghiên cứu các giải pháp khắc phục nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của người bệnh góp phần nâng cao hiệu quả điều trị.
#nhu cầu tư vấn dinh dưỡng #rung nhĩ không do bệnh van tim #thuốc chống đông kháng vitamin K
Bước đầu nghiên cứu ứng dụng tính đa hình gen đột biến kháng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu clopidogrel trong điều trị các bệnh nhân sau đặt stent động mạch vành qua da
Tạp chí Tim mạch học Việt Nam - Số 84+85 - Trang 166-174 - 2018
Cơ sở khoa học: Clopidogrel là thuốc kháng ngưng tập tiểu cầu được sử dụng phổ biến trong liệu pháp chống ngưng tập tiểu cầu kép và được chuyển hóa bởi CYP2C19. Đa hình gen CYP2C19 ảnh hưởng đến chuyển hóa Clopidogel. Mục tiêu: Nghiên cứu chúng tôi nhằm đánh giá ảnh hưởng tính đa hình gen đột biến kháng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu Clopidogrel trong điều trị các bệnh nhân sau đặt stent động mạch vành qua da. Phương pháp: Chúng tôi tuyển chọn 30 bệnh nhân đã được đặt stent động mạch vành qua da và được dùng Clopidogel, xác định kiểu gen CYP2C19 và đánh giá tác dụng của đa hình gen CYP2C19 lên độ ngưng tập tiểu cầu ở giai đoạn sớm và muộn sau dùng thuốc. Kết quả: Có 10/30 bệnh nhân (33,4%) kiểu gen CYP2C19*1/*1, 18/30 ca (60%) kiểu gen CY2C19*1*2, 1/30 ca (3.3%) kiểu gen CY2C19*1*3, 1/30 ca (3.3%) kiểu gen CY2C19*2*2. Độ ngưng tập tiểu cầu ở những bệnh nhân kiểu gen CY2C19*1*1 trung bình là 19.2±13.6%; ở các bệnh nhân có kiểu gen CY2C19*2*2 là 58% tại thời điểm lúc trước khi làm xét nghiệm gen và được dùng Clopidogrel 75mg/1 ngày, and 6% 30 ngày sau khi chuyển sang dùng 90 mg Ticagrelor 2 lần/1 ngày. Độ ngưng tập tiểu cầu ở những bệnh nhân có kiểu gen CY2C19*1*2 và CY2C19*1*3 là 33.5± 8.7% trước khi làm xét nghiệm gen dùng 75 mg Clopidogrel mỗi ngày, và 19.5±5.9% 30 ngày sau khi tăng liều Clopidogrel lên gấp 3 lần (225mg/1 ngày). Kết luận: Có sự ảnh hưởng giữa kiểu gen CYP2C19 và tác dụng của Clopidogrel. Xác định được kiểu đa hình gen CYP2C19 giúp ích đánh giá được tác dụng lên độ ngưng tập tiểu cầu của clopidogrel trong điều trị . Từ khóa: Đa hình gen CYP2C19, kháng Clopidogrel.
Thực trạng kiến thức sử dụng thuốc chống đông đường uống của người bệnh rung nhĩ không do bệnh van tim tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 5 Số 04 - Trang 34-43 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng kiến thức sử dụng thuốc chống đông đường uống của người bệnh rung nhĩ không do bệnh van tim tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 84 người bệnh được chẩn đoán rung nhĩ không do bệnh van tim được điều trị dự phòng huyết khối tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1/2021 đến tháng 12/2021. Kiến thức của người bệnh được đánh giá bằng bộ câu hỏi kiến thức về thuốc kháng đông đường uống của Obamiro, gồm 20 tiêu chí. Kết quả: Trong 20 tiêu chí cứu được sử dụng để đánh giá kiến thức của người bệnh thì tiêu chí “phải uống thuốc một cách chính xác đúng như y lệnh của bác sĩ đã dặn dò” và tiêu chí “ba điều cần làm để giảm nguy cơ bị các tác dụng phụ của thuốc” có tỉ lệ nhận thức đúng rất thấp trong nghiên cứu (16,6% và 14,2%). Đánh giá thực trạng nhận thức đúng của người bệnh uống thuốc kháng Vitamin K: chỉ có 34,1% người bệnh biết được khoảng INR mục tiêu, các tiêu chí đánh giá nhận thức khác, kết quả cũng dao động từ 52% đến 88%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức giữa hai nhóm dùng thuốc kháng vitamin K và nhóm NOACs. Kết luận: Kiến thức đúng của người bệnh liên quan đến thuốc chống đông có kết quả trả lời đúng rất thấp; không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức giữa hai nhóm.
#Kiến thức #thuốc chống đông đường uống #người bệnh rung nhĩ không do bệnh van tim
Thay đổi kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng Vitamin K của người bệnh tim mạch điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Địn
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 216-225 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và đánh giá những thay đổi kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch trước và sau can thiệp giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục trên một nhóm có so sánh trước và sau can thiệp, sử dụng thang đo tuân thủ điều trị của Donald được thực hiện với 102 người bệnh tim mạch đang dùng thuốc chống đông kháng vitamin K điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Kết quả: Trước can thiệp giáo dục sức khỏe, kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch còn hạn chế với điểm trung bình chỉ đạt 3,84 ± 1,98 điểm trên tổng 8 điểm của thang đo. Ngay sau can thiệp và 1 tháng sau can thiệp, kiến thức về tuân thủ của người bệnh đã được cải thiện với điểm trung bình kiến thức lần lượt là 7,56 ± 0,82 điểm và 7,09 ± 1,09 điểm so với 3,84 ± 1,98 điểm (p<0,01). Các tỷ lệ người bệnh theo mức độ kiến thức “Kém”, “Trung bình” và “Tốt” về tuân thủ trước can thiệp lần lượt là 23,5%, 51,0% và 25,5% đã thay đổi theo hướng tích cực hơn ngay sau can thiệp và 1 tháng sau can thiệp với không còn người bệnh ở mức độ kém, mức độ tốt lần lượt là 95,1% và 86,3%. Kết luận: Kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch trong nghiên cứu còn nhiều hạn chế trước can thiệp và đã được cải thiện rõ rệt sau can thiệp giáo dục sức khỏe.
#Tuân thủ điều trị #thuốc chống đông kháng vitamin K.
Kiến thức và tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K ở bệnh nhân sau mổ thay van tim cơ học tại Trung tâm tim mạch - Bệnh viện E năm 2014
Để hạn chế tình trạng biến chứng ở người bệnh (NB) sau mổ thay van tim cơ học cần phải tìm hiểu thực trạng tuân thủ điều trị (TTĐT) đồng thời xác định được yếu tố liên quan đến vấn đề TTĐT ở những NB này. Nghiên cứu sử dụng mô tả cắt ngang có phân tích, được tiến hành trên 268 NB sau mổ thay van tim cơ học tại Trung tâm Tim mạch - Bệnh viện E nhằm mô tả thực trạng và xác định yếu tố liên quan đến TTĐT thuốc chống đông kháng vitamin K. Phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm Epidata 3.0 và SPSS 16.0.Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ TTĐT thuốc chống đông đạt 61,6%; tỷ lệ tuân thủ chế độ ăn và chế độ hạn chế rượu/bia đạt 47,8% và 85,1%; tỷ lệ tuân thủ chung đạt 42,2%. Tỷ lệ đối tượng có kiến thức đạt chỉ chiếm 30%. Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa TTĐT với yếu tố giới tính, trình độ học vấn, thời gian thay van tim, tần suất được cán bộ y tế (CBYT) nhắc nhở về tuân thủ và CBYT giải thích các thông tin sau mổ (p<0,05).Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cần thiết tăng cường công tác hướng dẫn, nhắc nhở, giải thích cho NB thường xuyên về tuân thủ điều trị, tăng cường sựchủ động của NB và sự tham gia của người nhà trong thực hiện điều trị của NB sau phẫu thuật.
#* Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH VÀ BIẾN CHỨNG CHẢY MÁU Ở BỆNH NHÂN COVID 19 MỨC ĐỘ NGUY KỊCH TẠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN 5G
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ, yếu tố nguy cơ của huyết khối tĩnh mạch (HKTM) và biến chứng chảy máu ở bệnh nhân COVID 19 nguy kịch. Đối tượng và phương pháp: 98 bệnh nhân COVID 19 nguy kịch, được chẩn đoán và phân độ chảy máu theo WHO, trong số đó có 43 bệnh nhân được siêu âm Doppler đánh giá HKTM, tắc động mạch phổi cấp được chẩn đoán theo hội tim mạch châu âu năm 2014. Kết quả: chảy máu gặp ở 21,4% bệnh nhân COVID 19 nguy kịch, chảy máu độ 1, độ 2 là chủ yếu chiếm 11,3% và 7,1%, độ 3 là 2,0% và độ 4 là 1,0. Sử dụng thuốc chống đông liều trung bình và liều điều trị làm tăng nguy cơ chảy máu. Tỷ lệ tắc động mạch phổi và huyết khối tĩnh mạch sâu tương ứng là 11,63% và 37,21%. Mức độ tăng cao của D-dimer và CRP lúc nhập viện là yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Diện tích dưới đường cong của D-dimer và CRP với huyết khối tĩnh mạch tương ứng là 0,84 (p < 0,05) và 0,74 (p < 0,05). Kết luận: biến chứng chảy máu hay gặp ở bệnh nhân COVID 19 nguy kịch, chủ yếu là chảy máu nhẹ. Tỷ lệ tắc động mạch phổi và huyết khối tĩnh mạch sâu tương ứng là 11,63% và 37,21%. Xét nghiệm D-dimer và CRP lúc nhập viện có giá trị tiên lượng huyết khối tĩnh mạch ở bệnh nhân COVID-19 nguy kịch.
#COVID-19 #thuốc chống đông #chảy máu #huyết khối tĩnh mạch sâu #tắc mạch phổi
ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG THUỐC CHỐNG ĐÔNG Ở NHỮNG NGƯỜI BỆNH CÓ CHỈ ĐỊNH THỦ THUẬT CẤY MÁY TẠO NHỊP VĨNH VIỄN TẠI VIỆN TIM MẠCH VIỆT NAM
Tạp chí Sinh lý học Việt Nam - Tập 27 Số 4 - Trang - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu (NC) với  mục tiêu chính là tìm hiều tình hình sử dụng thuốc chống đông ở những người bệnh (NB) có chỉ định thủ thuật cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn (MTNVV) tại Viện Tim Mạch Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: NC mô tả cắt ngang, tiến cứu.  Những NB được can thiệp cấy MTNVV tại Viện Tim mạch Việt Nam trong thời gian từ tháng 08 năm 2019 đến tháng 03 năm 2020. Kết quả: NC 294 NB cấy MTNVV thu được kết quả: Số lượng NB có dùng thuốc chống đông, chống kết tập tiểu cầu chiếm 36.4%, trong đó số NB dùng 2 loại thuốc chiếm 6,5%. Xung quanh quá trình cấy máy, NB được dùng thuốc kháng vitamin K và NOAC chiếm tỷ lệ cao nhất 13,3%, dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu (KTTC) kép là 8,5%, chống KTTC đơn là 9,2%, Heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) là 5,4%. Trong số những NB dùng thuốc chống đông đường uống có 33,3% tiếp tục duy trì thuốc NOAC, kháng Vitamin K, 64,0% tiếp tục duy trì thuốc chống KTTC kép, 63% tiếp tục được duy trì thuốc chống KTTC đơn và 18,8% được duy trì LMWH trong quá trình cấy máy. Khi cấy máy, chỉ số INR chủ yếu trong giới hạn an toàn (INR < 1,5) chiếm 96,6%, chỉ có 3,4% có INR ≥ 1,5 trong đó giá trị INR lớn nhất là 3,95. Thuốc giảm đau dùng sau cấy máy chủ yếu là thuốc giảm đau bậc 1 và bậc 2, không có trường hợp nào phải dùng đến thuốc giảm đau bậc 3.
#Đặc điểm #sử dụng thuốc chống đông #máy tạo nhịp tim #cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn
Nghiên cứu thực trạng sử dụng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trên bệnh nhân phẫu thuật chỉnh hình lớn
Mục tiêu: Mô tả thực trạng sử dụng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sau phẫu thuật chỉnh hình lớn và đánh giá tính phù hợp theo hướng dẫn (ACCP 2012 và hướng dẫn sử dụng thuốc được cấp phép). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 thu nhận các bệnh nhân ≥ 18 tuổi và nhập viện phẫu thuật chỉnh hình lớn (thay khớp háng/khớp gối toàn phần hoặc gãy xương đùi). Kết quả: Từ tháng 1/2021 đến 12/2021, 317 bệnh nhân đưa vào phân tích. 97,2% bệnh nhân được dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch khi nằm viện bằng biện pháp kết hợp thuốc với cơ học (46,4%) và chỉ dùng thuốc (50,8%) với 96,2% có biện pháp dự phòng phù hợp. Hầu hết bệnh nhân dự phòng với thuốc là dabigatran và 73,4% lựa chọn thuốc phù hợp. Chế độ liều phù hợp ở 92% bệnh nhân và 80,8% có thời điểm dùng thuốc phù hợp. Chỉ 1,4% bệnh nhân có thời gian dự phòng < 10 ngày. 51,7% bệnh nhân dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch bằng thuốc phù hợp tổng thể và khía cạnh chính dẫn đến dự phòng bằng thuốc không phù hợp là lựa chọn thuốc ở nhóm gãy xương đùi không tuân theo hướng dẫn ACCP 2012. Kết luận: Vẫn tồn tại khoảng cách giữa thực hành lâm sàng với các khuyến cáo từ hướng dẫn điều trị.
#Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch #phẫu thuật chỉnh hình #thuốc chống đông đường uống tác dụng trực tiếp (DOAC)
Analysis of the current status of anticoagulant use in inpatients at Hanoi Heart Hospital
Mục tiêu: Phân tích đặc điểm bệnh nhân nội trú được chỉ định thuốc chống đông và thực trạng kê đơn thuốc chống đông tại bệnh viện Tim Hà Nội. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả, dựa trên hồ sơ bệnh án của bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông trong giai đoạn điều trị nội trú tại Bệnh viện Tim Hà Nội trong khoảng thời gian từ 01/02/2023 đến 28/02/2023. Kết quả: Tổng cộng 326 bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 66,0 ± 13,3. Tỉ lệ bệnh nhân suy giảm chức năng thận (ClCr < 30 ml/phút) là 14%. Tỉ lệ các lượt kê đơn chống đông đường tiêm và đường uống lần lượt là 52,4% và 85,6%. Enoxaparin được chỉ định điều trị hội chứng vành cấp và dự phòng huyết khối sau phẫu thuật thay/sửa van tim. Trong khi đó, các thuốc chống đông đường uống được sử dụng hầu hết cho chỉ định dự phòng đột quỵ do rung nhĩ và thay/sửa van tim. Kết luận: Việc sử dụng thuốc chống đông cần được giám sát chặt chẽ và hiệu chỉnh liều theo cân nặng, chức năng thận theo cá thể để đảm bảo hiệu quả và an toàn.
#Thuốc chống đông #chỉ định #liều dùng
Tổng quan thuốc chống đông đường uống thế hệ mới
Thuốc chống đông kháng vitamin K là nhóm thuốc được sử dụng trên các đối tượng có nguy cơ huyết khối cao, dự phòng cho các bệnh nhân có nhồi máu cơ tim, đột quỵ và đã cứu sống được rất nhiều trường hợp. Nhóm thuốc này được sử dụng sau khi đã điều trị với heparin. Hiện nay, chỉ định điều trị các thuốc kháng vitamin ngày càng phổ biến do những đặc điểm ưu việt, nhưng đòi hỏi phải có giám sát nghiệm ngặt của bác sĩ để tối ưu hóa hiệu quả điều trị với một liều đủ cao warfarin để ngăn ngừa hình thành cục máu đông và cũng không để xảy ra rủi ro, xuất huyết não. Gần đây thì có sự ra đời các thuốc chống đông thế hệ mới có thể sử dụng bằng đường uống với cơ chế ức chế trực tiếp các yếu tố đông máu X và thrombin, đang được nghiên cứu và phát triển ở pha thứ ba thử nghiệm lâm sàng để cung cấp thêm các cách dự phòng và điều trị huyết khối tĩnh mạch, liệu pháp chống đông máu sẽ ngày được hoàn thiện hơn trong nhiều năm tới.
#thuốc chống đông máu kháng vitamin K #dabigatran #rivaroxaban #apixaban #huyết khối #xuất huyết
Tổng số: 21   
  • 1
  • 2
  • 3